Trang chủ / Tin tức chung / Ý kiến về dự án mở rộng giai đoạn 2 nhà máy Gang-Thép Thái Nguyên

Ý kiến về dự án mở rộng giai đoạn 2 nhà máy Gang-Thép Thái Nguyên

LAM THANH 18/07/2019

Tất nhiên, để giải quyết vấn đề hiện tại của TISCO có những khó khăn nhất định, nhưng theo tôi thì vẫn có phương án giải quyết để có thể thoái được vốn nhà nước, thu hút đầu tư và đảm bảo an sinh xã hội cho toàn khu Gang-Thép Thái Nguyên.

Interview with Mr Pham Chi Cuong about the Thai Nguyen Iron and Steel Factory Project of Phase 2

PHỎNG VẤN ÔNG PHẠM CHÍ CƯỜNG DO LAM THANH THỰC HIỆN

1) Ông nhìn nhận thế nào về việc điều chỉnh vốn hợp phần dự án và tăng tổng mức đầu tư ở dự án mở rộng giai đoạn 2 nhà máy Gang- Thép Thái Nguyên? Việc này có phù hợp với bối cảnh thực tế thời điểm đó? 

Dự án này do TISCO làm chủ đầu tư được triển khai từ năm 2005 với tổng mức đầu tư được phê duyệt là 3.843 tỉ đồng. Do chậm tiến độ nên tháng 4/2013, chủ đầu tư đã phê duyệt tổng mức đầu tư điều chỉnh là 8.104 tỉ đồng, tăng 4.261 tỉ đồng. Nguyên nhân của việc điều chỉnh tổng mức đầu tư chủ yếu do khủng hoảng kinh tế khiến giá nguyên liệu, thuế, tiền lương nhân công, chi phí tài chính... tăng và chênh lệch tỷ giá. Gang-Thép Thái nguyên cũng như nhiều doanh nghiệp đều nằm trong bối cảnh như vậy. Chủ trương chung của nhà nước lúc đó thì cho phép điều chỉnh tổng mức đầu tư và tính toán thế nào cho có lợi nhất. Với dự án này, VNS, TISCO bàn với phía nhà thầu MCC (Trung Quốc), thỏa thuận việc phía Trung Quốc chỉ thực hiện phần thiết bị, tư vấn thiết kế, còn bên Việt Nam tiến hành phần xây lắp. Tôi cho rằng đó cũng là giải pháp phù hợp ở thời điểm đó.  

2) Tuy nhiên khi triển khai thực hiện thì lại có nhiều vấn đề? 

Sau đó, phía Việt Nam chọn VINACOMIN làm nhà thầu phụ thực hiện phần C trong hợp đồng EPC. Có lẽ, sai lầm bắt đầu từ đó, vì nhà thầu này không đủ năng lực, không có vốn, thi công kém nên kéo dài mãi. Phía Trung Quốc cũng giao cho ta khoảng 90 % máy móc, nhưng phần thiết bị điều khiển – phần cốt lõi, linh hồn của máy móc thì lại chưa giao. Trong khi đó, phía chúng ta đã thanh toán rất nhanh phần tiền lớn cho Trung Quốc. Trong phần vốn của TISCO thì VNS cũng có một phần vốn lớn. Nếu TISCO “chết” thì VNS cũng rất tổn thất.  Tuy nhiên, cùng thời điểm này, nếu là tư nhân thì có thể mọi chuyện đã khác. Lúc này, giai đoạn 2 của Hòa Phát cũng cùng quy mô thế này, cùng ký hợp đồng với Trung Quốc và cũng chịu cảnh nâng giá, nhưng họ chấp nhận bỏ tiền túi ra khắc phục và đi vào sản xuất ngay và lãi rất lớn sau đó.  

3) Nếu vậy, chúng ta có thể kiện phía Trung Quốc được không? Thưa ông? 

Dự án này cũng có cái khó. Việc đổ hết cho phía Trung Quốc cũng không dễ vì chính phía Việt Nam cũng chậm trễ. Chúng ta cũng tính đến việc kiện họ nhưng việc đấu tranh pháp lý cũng không đơn giản.  

4) Thưa ông, Văn phòng Chính phủ (VPCP) sau khi tham vấn ý kiến một số cơ quan liên quan đã thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng phụ trách lĩnh vực “đồng ý về nguyên tắc” để TISCO được tăng chi phí đầu tư phần xây lắp theo đúng các quy định của pháp luật. Cơ quan này cũng ban hành Văn bản số 3136/VPCP-KTN ngày 22/4/2013 thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Chính phủ rằng: “HĐQT VNS quyết định và chịu trách nhiệm việc điều chỉnh tổng mức đầu tư dự án theo quy định hiện hành, đảm bảo hiệu quả. Nếu vượt hạn mức, giao Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ trưởng Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định...”. Việc này cần được hiểu thế nào và trong quản lý nhà nước về đầu tư, cần làm thế nào để có sự thống nhất giữa chủ trương, nguyên tắc chỉ đạo và việc triển khai cụ thể, thưa ông? 

Đồng ý về chủ trương trong trường hợp này có nghĩa là đồng ý cho việc tăng vốn, tuy nhiên tăng thế nào, làm thế nào để hiệu quả thì chủ đầu tư phải tính toán. Dự án lúc đó đang dở dang, giá cả, nhân công tăng, tiến độ chậm… nên muốn cho nó chạy lại được thì phải đầu tư, còn đầu tư thế nào thì cần phải thiết kế, tính toán kĩ lưỡng. Bên cạnh đó, người duyệt cái thiết kế đó mới là quan trọng. Giữa chủ trương và việc thi hành cụ thể còn rất nhiều vấn đề. Ví dụ như để hoàn thành dự án cần phải có rất nhiều nhà thầu, rồi nhà thầu phụ.  

5) Như vậy, việc điều chỉnh tổng mức đầu tư là thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của Chủ tịch HĐQT TISCO? 

Đúng vậy. Trong vấn đề này, TISCO phải tính toán và chịu trách nhiệm. Hiện nay đã phân cấp nhiều cho doanh nghiệp chứ cơ quan nhà nước không chỉ đạo doanh nghiệp nhiều như trước. Mặc dù, là doanh nghiệp nhà nước cũng phải có nhiều thủ tục, xin ý kiến chứ không thể tự quyết hoàn toàn mọi thứ như doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, người duyệt những thiết kế của TISCO cũng có vai trò rất quan trọng.  

6) Được biết, VP Chính phủ không tham mưu các văn bản trên, mà chỉ tổng hợp ý kiến của các cơ quan, bộ, ngành, vậy theo ông, có hay không trách nhiệm của VP Chính phủ ở vụ việc này? 

Công việc của Văn phòng Chính phủ ở đây là tổng hợp ý kiến của các bộ liên quan và trình Thủ tướng, chứ họ không tham mưu những vấn đề này, cũng không có văn bản nào thể hiện sự cho phép hoặc chấp thuận đề nghị của TISCO. Trừ khi họ tổng hợp không trung thực ý kiến của các bộ, ngành thì khác. Do đó, việc xử lý cũng cần xem xét cụ thể quy định của pháp luật, tính đến bối cảnh thực tế và các diễn biến liên quan, đảm bảo xử lý khách quan, chính xác, đúng pháp luật.  

7) Thưa ông, cơ quan chức năng đang tiến hành xử lý sai phạm tại dự án này, tuy nhiên, giải pháp để vực dậy nhà máy này dường như đang rất bế tắc? 

Việc thanh tra, kiểm tra là xử lý sai phạm về mặt con người, tôi rất ủng hộ, ai làm thất thoát tiền của nhà nước thì phải xử lý, tiền của nhà nước không thể tiêu phung phí được, ví dụ như 1600 tỉ rót vào Thạch Khê khai thác thử hiện nay ai chịu trách nhiệm? Hay như nhà máy cán Cái Lân của Vinashin làm mấy năm trời, toàn đi mua máy cũ đâu có vận hành được? Sau này còn đòi đầu tư thêm 500 triệu đô la nhưng tôi phản đối.

Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là giải pháp kinh tế để giải cứu dự án này thì chưa có. Cái quan trọng không chỉ là việc xử lý, mà còn cần giải pháp để vực dậy nhà máy này. Tôi cho rằng vấn đề khó nhất là làm sao cho TISCO tồn tại. Vì dự án Gang-Thép Thái Nguyên giai đoạn 2 không phải là tất cả. Hiện ở đây vẫn sản xuất hàng triệu tấn thép, hàng trăm nghìn tấn phôi mỗi năm và vẫn làm ăn có lãi, nuôi sống gần 5.000 lao động. Nếu cứ kéo dài chuyện thế này thì doanh nghiệp này sẽ chết, kéo theo liên đới đến VNS vì công ty này cũng có vốn góp ở đây. 

Nếu không khoanh giai đoạn 2 lại, hy sinh nó để cứu công ty thì sẽ rất khó. Gang-Thép Thái Nguyên có mỏ nguyên liệu thì sẽ rất khác với những doanh nghiệp khác, có lợi rất nhiều. Thái Nguyên giai đoạn 1 hiện nay vẫn sống được cũng là nhờ tự khai thác được để sản xuất. Nếu để doanh nghiệp này chết thì rất đáng tiếc. 

Vậy theo ông, đâu là lối ra cho dự án này hiện nay? 

Tất nhiên, để giải quyết vấn đề hiện tại của TISCO có  những  khó  khăn  nhất  định,  nhưng theo tôi thì vẫn có phương án giải quyết để có thể thoái được vốn nhà nước, thu hút đầu tư và đảm bảo an sinh xã hội cho toàn khu Gang-Thép Thái Nguyên. Tôi đã từng theo dõi những tồn đọng của TISCO giai đoạn 2, ảnh hưởng đến hoạt động của VNS và toàn ngành thép. Với kinh nghiệm nửa thế kỷ gắn bó với ngành thép, tôi thấy rằng hiện trạng của TISCO không đến mức như nhiều cơ quan báo chí đề cập phản ánh, rằng công nghệ lạc hậu, máy móc để hàng chục năm phơi nắng phơi mưa nên chỉ còn là đống sắt vụn... 

Thực tế, công nghệ và quy mô của dự án TISCO giai đoạn 2 vẫn là công nghệ luyện kim truyền thống mà thế giới đang áp dụng (lò cao - lò thổi oxy) chứ không phải lạc hậu. Có 90 % các nhà máy trên thế giới vẫn dùng công nghệ này. Cũng với quy mô 500.000 tấn/năm như vậy, với thiết bị tương tự nhưng tập đoàn Hòa Phát ở Hải Dương đã vượt qua thời kỳ khó khăn để đưa khu liên hợp vào sản xuất và đạt lợi nhuận lớn. Mấy năm đắp chiếu, cỏ mọc lút chỉ có thể tác động và han gỉ bên ngoài đối với phần cơ, chỉ cần đánh gỉ, sơn lại, tra dầu mỡ là lại hoạt động bình thường. Tôi từng làm ở Gang-Thép Thái Nguyên, thời chiến tranh bom nổ vào lò cao mà vẫn khắc phục được để sản xuất thì những phần gỉ sét này không có gì đáng ngại. Phần điện vẫn ở trong kho. Linh hồn của nhà máy là phần điều khiển với các thiết bị tự động, hiện đại thì do chúng ta chưa có tiền để trả cho đối tác nhập khẩu nên vẫn chưa được chuyển về tới nhà máy. 

Do đó, khi gặp được nhà đầu tư có tiềm năng họ sẽ khôi phục lại nhanh chóng và phần đầu tư thêm sẽ giảm đi chứ không còn lớn như phương án đã trình chính phủ, vì chủ sở hữu mới có quyền tìm đối tác mới, cơ cấu lại vốn đầu tư và nhiều thay đổi khác do họ quyết định. TISCO giai  đoạn  1  với  công  suất  hiện  tại 500.000 - 600.000 tấn thép/năm vẫn sản xuất có lãi (dù không lớn) và đang nuôi số lượng công nhân gần 5.000 người, hoàn thành nghĩa vụ thuế. Tại sao chỉ vì đầu tư giai đoạn 2 dở dang lại để cho nó khó khăn như vậy, và có nguy cơ nếu không sớm có giải pháp giải quyết thì sẽ phá sản cả Khu Gang-Thép Thái Nguyên và không biết rằng các vấn đề xã hội có thể phát sinh như thế nào? Tôi nghĩ cần phải nhanh chóng thoái vốn của VNS khỏi TISCO và quyết liệt triển khai các giải pháp của đề án 1468. Đây là nút thắt đầu tiên cần tháo gỡ, tạo điều kiện cơ chế và vốn đề giải quyết những tồn tại khác của dự án. 

Thời gian qua đã có nhà đầu tư Việt Nam tham gia đầu tư nhưng thủ tục kéo dài, phức tạp nên họ đang có ý định rút vốn. Trước mắt, Chính phủ cần chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được tiếp tục cho TISCO vay vốn lưu động để duy trì sản xuất ổn định, đảm bảo an sinh xã hội, cuộc sống cho gần 5.000 công nhân. Đối với giai đoạn 2, cần xem xét khả năng giảm lãi suất vay trong thời kỳ xây dựng và ưu tiên kéo dài thêm thời gian trả nợ của dư án để giúp TISCO vượt qua khó khăn. Hơn nữa, lãnh đạo Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành cần lắng nghe ý kiến của các chuyên gia luyện kim, kinh tế đóng góp kế sách để giải quyết khó khăn cho TISCO, bảo toàn được phần vốn nhà nước.